Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật không có thuộc tính riêng. Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học gắn liền với bản chất của Người nắm quyền (người đại diện đấng siêu nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả mọi người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan điểm trên, quan điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp luật mang thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.
Theo các quan điểm thần học và quan điểm tư sản thì Pháp luật không có thuộc tính riêng. Bản chất Pháp luật của quan điểm thần học gắn liền với bản chất của Người nắm quyền (người đại diện đấng siêu nhiên). Pháp luật của quan điểm tư sản là thể hiện ý chí của tất cả mọi người trong xã hội, do đó không mang tính giai cấp. Trái với các quan điểm trên, quan điểm học thuyết Mác – Lênin cho rằng bản chất Pháp luật mang thuộc tính giai cấp và thuộc tính xã hội.
Là những đặc trưng cơ bản của Pháp luật, nếu Pháp luật không có những đặc tính này Pháp luật có tồn tại trong xã hội cũng không ý nghĩa. Pháp luật có những đặc tính sau:
Trong xã hội cách hành xử của mỗi người trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi người theo cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra Pháp luật vì tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo trong trường hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã hội như quy tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các quy phạm xã hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các thành viên trong xã hội.
Là những đặc trưng cơ bản của Pháp luật, nếu Pháp luật không có những đặc tính này Pháp luật có tồn tại trong xã hội cũng không ý nghĩa. Pháp luật có những đặc tính sau:
Trong xã hội cách hành xử của mỗi người trong cùng một quan hệ có thể khác nhau do vậy nhằm hướng hành vi của mọi người theo cách xử sự chung phù hợp với lợi ích Nhà nước và xã hội, Nhà nước đã đặt ra Pháp luật vì tính quy phạm Pháp luật là nhằm chỉ ra cách xử sự mà mọi người phải theo trong trường hợp hay tình huống nhất định. Ngoài Pháp luật các quy phạm khác trong xã hội như quy tắc đạo đức, luân lý, tôn giáo… cũng có tính quy phạm nhưng khác với các quy phạm xã hội, tính quy phạm của Pháp luật mang tính phổ biến rộng khắp đến tất cả các thành viên trong xã hội.
Đây là một thuộc tính thể hiện bản chất của Pháp luật, nếu Pháp luật không có tính cưỡng chế thì dù Pháp luật có tồn tại hay không vẫn không có ý nghĩa vì trong xã hội luôn có những người không nghiêm chỉnh tuân thủ Pháp luật mà còn tìm cách chống lại các quy định của Pháp luật, do vậy những quy tắc xử sự đặt ra trong luật bắt buộc mọi người phải thực hiện và nó được đảm bảo bằng các hình thức chế tài của Nhà nước.
Tính chất này ở Pháp luật thể hiện khi Pháp luật đặt ra những quy tắc xử sự cho một trường hợp, hoàn cảnh nhất định mà bất kỳ ai rơi vào những trường hợp, hoàn cảnh đó đều phải áp dụng những quy tắc mà Pháp luật đã đặt ra, mọi người đều bình đẳng như nhau, đều chịu sự tác động của Pháp luật.
Pháp luật bao gồm nhiều quy định khác nhau nhưng tất cả đều được sắp xếp theo một trật tự, thứ bậc, thống nhất với nhau trong một hệ thống. Chính nhờ tính chất này mà Pháp luật được áp dụng dễ dàng và hiệu quả hơn trong đời sống xã hội.
Pháp luật có vai trò giúp ổn định xã hội, do đó nếu Pháp luật luôn thay đổi sẽ đánh mất lòng tin của mọi người đối với Pháp luật. Mặt khác Pháp luật luôn được đòi hỏi phải phù hợp với sự phát triển kinh tế nên khi các quan hệ kinh tế xã hội thay đổi phát triển thì Pháp luật phải thay đổi theo nếu không Pháp luật sẽ trở thành yếu tố cản trở sự phát triển xã hội, nên tính ổn định của Pháp luật là tính ổn định tương đối.
Virus được coi là những ký sinh trùng siêu nhỏ, chúng nhỏ hơn rất nhiều so với vi khuẩn. Phần lớn các bệnh gây ra do virus phát triển lây lan. Vậy virus là gì? chúng hình thành như thế nào? Nguồn gốc ra sao? Cùng VMinTech giải quyết tất cả những thắc mắc này trong bài viết dưới đây.
Theo nghiên cứu của các nhà khoa học, virus là một loại ký sinh trùng nhỏ không thể tự sản sinh. Khi virus lây nhiễm vào đến tế nào nhạy cảm, nó có khả năng điều khiển bộ máy tế bào để sản sinh ra nhiều virus hơn. Theo đó, hầu hết các loại virus đều có RNA và DNA, đây chính là vật liệu di truyền của chúng. Trong đó, Acid nucleic có thể là chuỗi đơn hoặc chuỗi kép. Những virus truyền nhiễm thì được gọi là virion, gồm acid nucleic và vỏ ngoài của protein.
Virus là một loại ký sinh trùng nhỏ không thể tự sản sinh
Virus hoàn toàn phụ thuộc vào vật chủ ký sinh, bởi vậy nên chúng được coi là loài sinh vật duy nhất không thể sinh sản mà không có tế bào vật chủ. Sau khi kết nối được với tế bào vật chủ thì chúng sẽ chèn vật liệu di truyền vào vật chủ và điều khiển, kiểm soát luôn chức năng của vật chủ đó.
Sau đó, nó sẽ lây nhiễm vào tế bào và tiếp tục sản sinh, lúc này virus có vẻ sẽ hoạt động năng suất hơn. Do ở giai đoạn này chúng tạo ra nhiều protein và vật liệu di truyền hơn thay vì các sản phẩm tế bào thông thường. Thông thường, với các loại virus đơn giản nhất chỉ cần chứa đủ RNA hoặc DNA để mã hóa được bốn protein, còn với các virus phức tạp, có thể mã hoá khoảng từ 100 – 200 protein.
Năm 1892 loại virus đầu tiên được phát hiện bởi Ivanopxki. Và cho đến năm 1940, khi nền y học đã có những bước phát triển mới thì con người đã quan sát được hình thể của loại virus này qua kính hiển vi điện tử. Sau đó, đã có rất nhiều loại virus được phát hiện, chúng có kích thước và hình dạng nhất định và không thay đổi suốt quá trình phát triển. Bởi vậy mà các nhà khoa học đã lấy các đặc điểm này để phân loại virus.
Virus được phân loại theo hình dạng, kích thước
Virus đã được hình thành và tồn tại ngay từ khi có những tế bào sống phát triển đầu tiên. Cho đến nay, nguồn gốc thực sự của virus vẫn được được khẳng định rõ ràng vì chúng không tạo thành hóa thạch. Các nhà khoa học đã sử dụng kỹ thuật điện phân để thực hiện so sánh DNA hoặc RNA của virus.
Bên cạnh đó, các loại virus cũng có thể được truyền theo chiều dọc khi chúng tích hợp vào tế bào sinh vật chủ, giống như việc truyền con cái của vật chủ qua nhiều thế hệ. Nhờ những thông tin này mà các nhà khoa học có thể truy tìm ra.
Hiện nay có 3 giả thuyết về sự hình thành của virus:
Thứ nhất, giả thuyết hồi quy. Theo giả thuyết này thì virus có thể đã từng là những tế bào nhỏ ký sinh trên các tế bào lớn hơn. Qua thời gian, các gen không được yêu cầu bởi ký sinh trùng thì sẽ bị mất đi. Còn các vi khuẩn nhỏ rickettsia và chlamydia là những tế bào sống, chúng chỉ sinh sản bên trong tế bào vật chủ. Dựa theo giả thuyết này có thể thấy sự phụ thuộc của ký sinh trùng có thể làm mất gen cho phép sống sót ở bên ngoài. Bởi vậy mà nhiều người còn gọi giả thuyết này với những cái tên khác như giả thuyết thoái hóa, giả thuyết giảm.
Sự hình thành của Virus được lý giải bằng nhiều giả thuyết khác nhau
Thứ hai, giả thuyết nguồn gốc tế bào. Giả thuyết này có rằng virus đã tiến hóa từ DNA hoặc RNA, sau đó chúng thoát khỏi gen của một sinh vật lớn hơn. Trong đó, DNA có thể đến từ plasmids hoặc transposons.
Thứ ba, giả thuyết đồng tiến hóa hay còn có tên gọi khác là giả thuyết đầu tiên. Theo giả thuyết này thì virus có thể tiến hóa từ các phân tử phức tạp của protein và acid nucleic, chúng xuất hiện cùng thời điểm với tế bào xuất hiện lần đầu tiên trên Trái Đất.
Trên đây là một số những thông tin cơ bản nhất về virus là gì? Sự hình thành của virus. Mong rằng đây sẽ là những thông tin giải đáp hữu ích giúp bạn có cái nhìn tổng quan về virus và có thêm những thông tin về nguồn gốc của chúng.